TỔNG KẾT CÔNG TÁC BÁO CÁO ADR NĂM 2012
TỔNG KẾT CÔNG TÁC BÁO CÁO ADR NĂM 2012
 

Tóm tắt

Năm 2012, Trung tâm DI&ADR Quốc gia đã tiếp nhận được tổng số 3236 báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR), trong đó, 3024 báo cáo được gửi từ các cơ sở khám, chữa bệnh và 212 báo cáo nghiêm trọng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm.
Từ khóa:  

Nội dung bài

New Page 1

I. BÁO CÁO ADR TỪ CÁC CƠ SỞ KHÁM, CHỮA BỆNH

1. Số lượng báo cáo đã tiếp nhận

Số lượng báo cáo tiếp nhận được năm 2012 (3024 báo cáo) (hình 1) tăng đáng kể (25,6%) so với năm 2011. Nhìn chung, báo cáo ADR nhận được phân bố tương đối đều trong các tháng nhưng tập trung nhiều hơn vào các tháng cuối năm (hình 2).

2. Tình hình báo cáo ADR từ các đơn vị

364 cơ sở khám chữa bệnh của 61/63 tỉnh, thành phố đã tham gia gửi báo cáo ADR. Hai tỉnh chưa gửi báo cáo ADR đến thời điểm cuối năm (15/12/2013) là Bắc Kạn và Thừa Thiên Huế. Mười đơn vị có số lượng báo cáo ADR nhiều nhất được liệt kê trong bảng 1.

3. Các thuốc nghi ngờ gây ra ADR được báo cáo nhiều nhất

Số lượng thuốc nghi ngờ gây ADR trong 3024 báo cáo ADR là 3679 thuốc (tỷ lệ 1,22 thuốc/1 báo cáo). Các thuốc nghi ngờ gây ADR xuất hiện nhiều nhất thuộc 3 nhóm chính: kháng sinh (cefotaxim, ceftriaxon, cefalexin, ceftazidim, ciprofloxacin), thuốc điều trị lao (streptomycin, pyrazinamid, rifampicin) và thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm (paracetamol và diclofenac). Trong đó, cefotaxim là thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất (12,1%) (bảng 2).

4. Các trường hợp báo cáo khẩn

Trong năm 2012, Trung tâm DI&ADR Quốc gia đã xử lý 20 trường hợp báo cáo ADR khẩn, chủ yếu là sốc phản vệ đe dọa tính mạng người bệnh. Số ca tử vong là 10 trường hợp, trong đó 5 trường hợp liên quan đến thuốc cản quang có chứa iod. Trung tâm cũng xử lý 9 chuỗi báo cáo, trong đó ADR xảy ra với cùng một hoạt chất trên 1 hoặc nhiều lô sản phẩm (bảng 3).

5. Kết quả thẩm định và phản hồi báo cáo ADR       

Đến hết tháng 12/2012, 665 báo cáo nhận được đã được thẩm định và phản hồi cho người báo cáo (61 báo cáo khẩn và 604 báo cáo nghiêm trọng). Mối quan hệ nhân quả giữa thuốc và ADR được các chuyên gia thẩm định theo thang của Tổ chức Y tế Thế giới. Trong đó, số ADR ở 3 mức độ cao nhất (chắc chắn, có khả năng và có thể) chiếm 98,1% tổng số ADR được thẩm định. Các ADR được báo cáo chủ yếu là các ADR nhẹ, hồi phục không có di chứng (72,0%). Có 12 báo cáo liên quan đến ADR nghiêm trọng gây tử vong (1,9%).


Bảng 1: Danh sách 10 bệnh viện gửi báo cáo nhiều nhất năm 2012

STT

Đơn vị gửi báo cáo

Tỉnh/thành phố

Số lượng báo cáo

1

Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch

TP. Hồ Chí Minh

204

2

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh

111

3

Bệnh viện Đà Nẵng

Đà Nẵng

84

4

Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương

Hà Nội

83

5

Bệnh viện Từ Dũ

TP. Hồ Chí Minh

81

6

Bệnh viện Nhân Dân Gia Định

TP. Hồ Chí Minh

66

7

Bệnh viện Đa khoa TP. Cần Thơ

Cần Thơ

60

8

Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Bắc Giang

Bắc Giang

59

9

Bệnh viện Chợ Rẫy

TP. Hồ Chí Minh

52

10

Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng

Đà Nẵng

48

 

Bảng 3: Các trường hợp báo cáo khẩn

STT

Số báo cáo

Thuốc nghi ngờ

ADR

Mối liên quan giữa thuốc và ADR

Kết quả sau khi xử trí ADR

1

1

Carbosin (carboplatin)

Sốc phản vệ

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng

2

1

Carbosin (carboplatin)

Sốc phản vệ

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng

3

1

Esmeron (rocuronium)

Sốc phản vệ

Có khả năng

Tử vong

4

1

Fentanyl

Propofol

Suxamethonium

Pipecuronium

Sốc phản vệ

Có khả năng

Tử vong

5

1

Xenetic (iobitridol)

Sốc phản vệ

Chắc chắn

Tử vong

6

3

Relab 20% (albumin)

Rét run, khó thở

Có khả năng

Không có thông tin

7

3

Xenetic (iobitridol)

Sốc phản vệ

Chắc chắn

1 trường hợp tử vong, 2 trường hợp hồi phục không để lại di chứng

8

1

Xenetic (iobitridol)

Sốc phản vệ

Chắc chắn

Tử vong

9

1

Iopamiro (iopamidol)

Phản ứng phản vệ

Chắc chắn

Tử vong

10

3

Relab 20% (albumin)

Phản ứng phản vệ

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng

11

1

Alpha Kiisin

(alphachymotrypsin)

Sốc phản vệ

Có khả năng

Tử vong

12

5

Koceam (cefotaxim)

Buồn nôn, mẩn ngứa toàn thân

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng

13

6

Rabi-kit (rabeprazol, clarithromycin, ornidazol)

Mệt mỏi, lơ mơ, bủn rủn, đau đầu, chóng mặt

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng

14

1

Telebrix

(acid ioxitalamic)

Sốc phản vệ

Chắc chắn

Tử vong

15

13

Relab 20% (albumin)

Phản ứng phản vệ

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng hoặc thiếu thông tin

16

10

Kepain (ketoprofen)

Phản ứng phản vệ hoặc phản ứng dị ứng nhẹ

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng hoặc thiếu thông tin

17

3

Cefotaxim

Mẩn đỏ, ngứa, mày đay, khó thở

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng hoặc thiếu thông tin

18

1

Zidovudin

Thiếu máu nghiêm trọng, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu

Có khả năng

Tử vong

19

4

Ketorola (ketorolac)

Sưng mắt, sưng môi, mẩn đỏ, mày đay

Chắc chắn

Hồi phục không để lại di chứng

20

1

Isofluran

Suxamethonium

 

Sốt cao, mạch nhanh, loạn nhịp tim sau đó mạch chậm, huyết áp tụt, ngừng tim, tử vong

Có khả năng

Tử vong

 

Bảng 4: Danh sách các thuốc nghi ngờ được

báo cáo nhiều nhất từ các đơn vị sản xuất và

kinh doanh dược phẩm

STT

Tên hoạt chất

Tần số

Tần suất (%)

1

Imatinib

106

47,96

2

Vắc xin*

25

11,31

3

Thuốc bổ sung calci

9

4,07

4

Zoledronat

9

4,07

5

Sorafenib

6

2,71

6

Azithromycin

4

1,81

7

Các vitamin

và chất khoáng

4

1,81

8

Ampicilin/sulbactam

3

1,36

9

Iopromid

3

1,36

10

Paracetamol

3

1,36

11

Propofol

3

1,36

12

Vildagliptin

3

1,36

* Trong đó, 18 báo cáo liên quan đến vắc xin Quinvaxem.

  II. BÁO CÁO ADR TỪ CÁC ĐƠN VỊ SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH DƯỢC PHẨM

15 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR nghiêm trọng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc tại các nước khác với các sản phẩm đang có số đăng ký và lưu hành tại Việt Nam về Trung tâm Quốc gia và Trung tâm khu vực về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc trong năm 2012.

Số trường hợp tử vong nghi ngờ do thuốc xảy ra ở Việt Nam được báo cáo là 21 trường hợp. Trong đó, 14 trường hợp tử vong xảy ra vào các năm 2010, 2011 và 2012 liên quan đến việc sử dụng vắc xin Quinvaxem.

Danh sách các thuốc nghi ngờ gây ADR xảy ra nhiều nhất được trình bày trong bảng 4.

 

III. KẾT LUẬN

Công tác báo cáo ADR năm 2012 đã có chuyển biến đáng kể so với năm 2011 với số lượng báo cáo thu nhận được là cao nhất từ khi hoạt động báo cáo ADR được triển khai tại Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng này vẫn còn rất thấp so với số lượng ADR xảy ra trong thực hành tại các cơ sở khám, chữa bệnh kèm theo chất lượng thông tin của nhiều báo cáo còn chưa cao. Thực tế này cho thấy cần tăng cường tập huấn nâng cao nhận thức và hướng dẫn kỹ năng phát hiện, theo dõi và báo cáo ADR cho cán bộ y tế. Việc hoàn thiện các quy trình chuyên môn hướng dẫn báo cáo, tạo nhiều kênh báo cáo ADR, công tác thẩm định, phản hồi thông tin cho người báo cáo cũng cần được đẩy mạnh. Trung tâm DI&ADR Quốc gia và Trung tâm khu vực về DI&ADR
TP. Hồ Chí Minh chân thành cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và cán bộ y tế đã gửi báo cáo ADR trong năm 2012 và mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác, hỗ trợ từ các đơn vị trong công tác Cảnh giác dược và đảm bảo an toàn thuốc tại Việt Nam.

Không hữu dụng  1   2   3   4   5  Rất hữu dụng
: Không hữu dụng  1   2   3   4   5  Rất hữu dụng
:
:
:
:
Gửi bài viết cho bạn bè:
TỔNG KẾT CÔNG TÁC BÁO CÁO ADR NĂM 2012
:
:
Địa chỉ email người nhận
:
:
: