Nội dung bài
Trong 6 tháng đầu năm 2017, Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh tiếp nhận 5116 báo cáo ADR (tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2016). Trong đó, 4385 báo cáo ADR được gửi từ các cơ sở khám, chữa bệnh và 788 báo cáo ADR xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm (trong đó có 57 báo cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, chữa bệnh) (hình 1).
Hình 1: Số lượng báo cáo ADR 6 tháng đầu năm 2017 lũy tiến theo từng tháng
Báo cáo ADR từ các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
Tính đến hết ngày 30/6/2017, 598 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của toàn bộ 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã gửi báo cáo ADR. Phần lớn báo cáo vẫn được gửi từ các đơn vị ở vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng, từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa khoa và bệnh viện thuộc khối công lập (bảng 1). Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có số lượng báo cáo cao nhất (tương ứng 18,1% và 16,2% tổng số báo cáo nhận được của cả nước). Thành phố Đà Nẵng là địa phương có công tác báo cáo ADR hiệu quả nhất với số báo cáo/1 triệu dân cao nhất trong cả nước (159,4 báo cáo/1 triệu dân) (bảng 2). Các đơn vị có số lượng báo cáo ADR cao tập trung tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Bệnh viện Từ Dũ là đơn vị có số báo cáo ADR nhiều nhất trong cả nước, chiếm 2,8% tổng số báo cáo ADR từ các đơn vị khám, chữa bệnh (bảng 3).
Bảng 1: Phân loại báo cáo ADR về vị trí địa lý, tuyến và loại hình đơn vị gửi báo cáo |
|||
|
Số báo cáo |
Tỷ lệ (%) (n=4385) |
|
Vị trí địa lý |
Tây Bắc Bộ |
140 |
3,2 |
Đông Bắc Bộ |
396 |
9,0 |
|
Đồng bằng sông Hồng |
1099 |
25,1 |
|
Bắc Trung Bộ |
389 |
8,9 |
|
Nam Trung Bộ |
619 |
14,1 |
|
Đông Nam Bộ |
1045 |
23,8 |
|
Đồng bằng sông Cửu Long |
697 |
15,9 |
|
Tuyến |
Trung ương |
534 |
12,2 |
Tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương |
2070 |
47,2 |
|
Quận/huyện |
1226 |
28,0 |
|
Cơ sở y tế ngành |
99 |
2,3 |
|
Bệnh viện trực thuộc các trường đại học |
126 |
2,9 |
|
Cơ sở khám chữa bệnh tư nhân |
330 |
7,5 |
|
Loại hình |
Đa khoa |
2887 |
65,8 |
Chuyên khoa |
1498 |
34,2 |
Bảng 2: Danh sách 10 tỉnh/thành phố gửi báo cáo ADR nhiều nhất |
||||
STT |
Tỉnh/thành phố |
Số báo cáo |
Số báo cáo/ 1 triệu dân* |
Tỷ lệ % (n=4385) |
1 |
TP. Hồ Chí Minh |
795 |
97,6 |
18,1 |
2 |
Hà Nội |
709 |
98,3 |
16,2 |
3 |
Khánh Hòa |
185 |
153,5 |
4,2 |
4 |
An Giang |
183 |
84,8 |
4,2 |
5 |
Cần Thơ |
178 |
142,6 |
4,1 |
6 |
Đà Nẵng |
164 |
159,4 |
3,7 |
7 |
Nghệ An |
146 |
47,7 |
3,3 |
8 |
Quảng Ninh |
115 |
94,9 |
2,6 |
9 |
Đồng Nai |
112 |
38,5 |
2,6 |
10 |
Phú Thọ |
72 |
52,6 |
1,6 |
* Dân số tính theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2015.
Bảng 3: Danh sách 10 cơ sở khám, chữa bệnh gửi báo cáo ADR nhiều nhất |
||||
TT |
Đơn vị gửi báo cáo |
Tỉnh |
Số báo cáo |
Tỷ lệ (%) (n=4385) |
1 |
Bệnh viện Từ Dũ |
TP. Hồ Chí Minh |
121 |
2,8 |
2 |
Bệnh viện Chuyên khoa Tâm thần Khánh Hòa |
Khánh Hòa |
102 |
2,3 |
3 |
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch |
TP. Hồ Chí Minh |
99 |
2,3 |
4 |
Bệnh viện Bạch Mai |
Hà Nội |
94 |
2,1 |
5 |
Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới |
TP. Hồ Chí Minh |
67 |
1,5 |
6 |
Bệnh viện Phụ Sản MêKông |
TP. Hồ Chí Minh |
64 |
1,5 |
7 |
Bệnh viện Phụ Sản Trung ương |
Hà Nội |
61 |
1,4 |
8 |
Viện Huyết Học - Truyền Máu Trung ương |
Hà Nội |
60 |
1,4 |
9 |
Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng |
Đà Nẵng |
56 |
1,3 |
10 |
Bệnh viện Phổi Trung ương |
Hà Nội |
54 |
1,2 |
Đối tượng gửi báo cáo chủ yếu là dược sĩ (40,6%), bác sĩ - y sĩ (28,5%) và tiếp theo là điều dưỡng và nữ hộ sinh (19,4%) (hình 2).
Hình 2: Nhân viên y tế gửi báo cáo ADR
Trong số 4385 báo cáo có 22 báo cáo về chất lượng thuốc và 8 về các vấn đề khác. Vì vậy, thông tin về thuốc nghi ngờ được thống kê trên 4355 báo cáo. Tổng số thuốc nghi ngờ được báo cáo là 5345 thuốc (tỷ lệ vẫn duy trì 1,2 thuốc/1 báo cáo). Các thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo thuộc 4 nhóm chính: kháng sinh (cefotaxim, ceftriaxon, ceftazidim, ciprofloxacin, amoxicilin/chất ức chế beta lactamase, cefuroxim), các thuốc điều trị lao (ethambutol và rifampicin/isoniazid/pyrazinamid), thuốc giảm đau, chống viêm (diclofenac) và thuốc chống loạn thần (haloperidol). Cefotaxim vẫn là thuốc nghi ngờ gây ra ADR được báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 12,0% (bảng 4).
Bảng 4: Danh sách 10 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất |
|||
STT |
Hoạt chất |
Số lượng |
Tỷ lệ % (n=4355) |
1 |
Cefotaxim |
524 |
12,0 |
2 |
Ceftriaxon |
282 |
6,5 |
3 |
Ceftazidim |
218 |
5,0 |
4 |
Ciprofloxacin |
211 |
4,8 |
5 |
Diclofenac |
206 |
4,7 |
6 |
Amoxicilin/chất ức chế beta lactamase |
167 |
3,8 |
7 |
Ethambutol |
165 |
3,8 |
8 |
Haloperidol |
150 |
3,4 |
9 |
Rifampicin/isoniazid/pyrazinamid |
133 |
3,1 |
10 |
Cefuroxim |
115 |
2,6 |
Báo cáo ADR từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm
Trong 6 tháng đầu năm 2017, 32 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR đơn lẻ và 39 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo tổng hợp định kỳ về Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh.
Tổng số báo cáo ADR xảy ra tại Việt Nam đã được các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm ghi nhận là 788 (trong đó có 57 báo cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, chữa bệnh), tăng 36,3% so với cùng kỳ năm 2016. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm có số lượng báo cáo ADR nhiều nhất được liệt kê trong bảng 5. Ngoài ra, các chế phẩm đang được lưu hành trên thị trường được báo cáo nhiều nhất là dung dịch thẩm phân màng bụng (22,1%), erlotinib (12,1%), bevacizumab (6,1%), imatinib (5,3%) và losartan (4,7%).
Bảng 5: Danh sách 10 đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm gửi báo cáo ADR nhiều nhất |
|||
STT |
Đơn vị báo cáo |
Số báo cáo |
Tỷ lệ % (n=788) |
1 |
VPĐD Hoffmann La Roche Ltd |
255 |
32,4 |
2 |
VPĐD Baxter Healthcare (Asia) Pte Ltd |
174 |
22,1 |
3 |
VPĐD Merck Sharp & Dohme (Asia) Ltd |
108 |
13,7 |
4 |
VPĐD Novartis Pharma Services AG |
57 |
7,2 |
5 |
VPĐD AstraZeneca Singapore Pte Ltd |
32 |
4,1 |
6 |
Công ty Fresesius Kabi Việt Nam |
29 |
3,7 |
7 |
Công ty Sanofi - Aventis Việt Nam |
21 |
2,7 |
8 |
VPĐD Janssen - Cilag Ltd |
17 |
2,2 |
9 |
VPĐD Bayer (South East Asia) Pte Ltd |
13 |
1,6 |
10 |
VPĐD GlaxoSmithKline Pte Ltd |
9 |
1,1 |
Kết luận
Trong 6 tháng đầu năm 2017, số lượng báo cáo ADR được tiếp nhận đã tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2016, tỷ lệ báo cáo vẫn chưa đồng đều giữa các địa phương, khu vực và các tuyến bệnh viện. Do đó, công tác báo cáo ADR cần tiếp tục được thúc đẩy hơn nữa, đặc biệt tại đơn vị, địa phương chưa tham gia báo cáo ADR. Dược sĩ là đối tượng chính tham gia báo cáo ADR và cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác đảm bảo an toàn thuốc nói chung và hoạt động theo dõi, báo cáo ADR nói riêng. Bên cạnh việc báo cáo ADR của các thuốc được sử dụng nhiều (thuốc kháng sinh, thuốc điều trị lao, thuốc giảm đau, chống viêm) và các phản ứng có hại thông thường (dị ứng ngoài da, phản ứng phản vệ/sốc phản vệ), cán bộ y tế cần tập trung báo cáo phản ứng có hại của các thuốc mới được sử dụng tại đơn vị, phản ứng có hại mới chưa được ghi nhận và các phản ứng có hại cần xét nghiệm cận lâm sàng hoặc thăm dò chức năng chuyên biệt.
Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp để triển khai hiệu quả hoạt động giám sát ADR.