ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
Dương Khánh Linh, Trần Thúy Ngần, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Khắc Dũng, Nguyễn Tùng Sơn, Nguyễn Mai Hoa, Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Phương Thúy 
Từ khóa:  

Nội dung bài

4 thuốc đối quang từ nhóm gadolinium: Khuyến cáo tạm ngừng lưu hành

Trong cuộc họp ngày 06-09/3/2017, Ủy ban Đánh giá Nguy cơ Cảnh giác Dược(PRAC) thuộc Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA) đã khuyến cáo tạm ngừng lưu hành (suspension of the marketing authorisations) 4 thuốc đối quang từ nhóm gadolinium vì có bằng chứng có một lượng nhỏ gadolinium lắng đọng trong não sau khi sử dụng thuốc. Các chế phẩm đường tiêm mà PRAC lo ngại bao gồm acid gadobenic, gadodiamid, acid gadopentetic và gadoversetamid, được tiêm cho bệnh nhân để tăng cường hình ảnh khi chụp cộng hưởng từ (MRI).

PRAC đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục về việc tích lũy gadolinium trong não bệnh nhân từ những nghiên cứu đo lường trực tiếp gadolinium trong mô não và những vùng tăng cường độ tín hiệu trên hình ảnh chụp MRI sau nhiều tháng kể từ lần sử dụng thuốc cuối cùng. Các công ty dược liên quan vẫn có quyền kiến nghị PRAC xem xét lại các khuyến cáo này.

Dù chưa có triệu chứng hoặc bệnh nào được phát hiện là có mối liên hệ với việc tích lũy gadolinium trong não, PRAC vẫn tiếp cận vấn đề rất thận trọng, và lưu ý rằng dữ liệu về ảnh hưởng lâu dài của gadolinium trong não vẫn còn hạn chế. Việc tích lũy gadolinium trong các mô và cơ quan khác có liên quan đến một số tác dụng không mong muốn hiếm gặp như ban da (skin plaque) và xơ hóa hệ thống nguồn gốc thận (nephrogenic systemic fibrosis) - một bệnh lý nghiêm trọng trên bệnh nhân suy thận. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cận lâm sàng nào cho thấy gadolinium có thể gây hại cho các mô. 

Tuy acid gadopentetic tiêm tĩnh mạch bị khuyến cáo tạm dừng lưu hành, nhưng một dạng chế phẩm khác của acid gadopentetic tiêm trực tiếp vào khớp vẫn được lưu hành vì nồng độ gadolinium được thuốc giải phóng rất thấp - thấp hơn khoảng 200 lần so với các chế phẩm đường tiêm tĩnh mạch.


TGA: Nguy cơ huyết khối khi sử dụng thuốc tránh thai phối hợp đường uống

 Ngày 21/12/2016, Cơ quan Quản lý Điều trị Úc (TGA) thông báo đã hoàn thành tổng quan về nguy cơ huyết khối ở phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai phối hợp dùng đường uống (CHC) chứa ethinyloestradiol và một progesteron.

 Các khuyến cáo chính được TGA đưa ra bao gồm:

- Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch ở phụ nữ nhìn chung hiếm gặp, khoảng 2 ca trong 10.000 phụ nữ mỗi năm.

- Dựa trên dữ liệu hiện có, nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tăng lên tùy thuộc loại      progesteron có trong thuốc tránh thai.

- Nguy cơ huyết khối động mạch, như đột quỵ hoặc đau tim (heart attack), cũng tăng lên khi sử dụng các thuốc tránh thai phối hợp nhưng hiếm gặp hơn và không có bằng chứng cho thấy sự khác biệt giữa các thuốc tránh thai về nguy cơ này. Nguy cơ huyết khối động mạch tăng lên theo tuổi, tình trạng hút thuốc và béo phì.

- Tờ Thông tin về sản phẩm và các tài liệu thông tin thuốc cho người sử dụng thuốc tránh thai phối hợp đường uống nên được cập nhật về nguy cơ huyết khối để đảm bảo thông tin rõ ràng và nhất quán hơn giữa các sản phẩm.

Gần đây, EMA cũng thực hiện đánh giá về vấn đề này và đưa ra các kết luận tương tự.

Một số nhà sản xuất thuốc tránh thai phối hợp đã cập nhật các thông tin này vào thông tin sản phẩm dành cho cán bộ y tế và người sử dụng thuốc trên sản phẩm của họ. TGA đang tiếp tục làm việc với các nhà sản xuất khác để cập nhật nguy cơ này.

Nguy cơ huyết khối có khả năng gia tăng ở các phụ nữ có các yếu tố nguy cơ sau:

- Trên 35 tuổi.

- Hút thuốc.

- Chỉ số khối cơ thể trên 30 kg/m2.

- Có di truyền hoặc mắc phải khuynh hướng mắc bệnh về huyết khối, bao gồm kháng protein C hoạt động (APC) (như yếu tố V Leiden).

- Có tiền sử về huyết khối trong gia đình hoặc bản thân.

- Bất động (ví dụ sau phẫu thuật hoặc trong chuyến bay đường dài).

- Có một hoặc vài yếu tố khác làm tăng nguy cơ huyết khối.

 

Thông tin dành cho cán bộ y tế: 

Nếu bác sĩ đang xem xét kê đơn thuốc tránh thai phối hợp hoặc điều trị cho bệnh nhân đang sử dụng thuốc tránh thai phối hợp, cần đảm bảo rằng bác sĩ đã nắm được các thông tin được cung cấp trong bản tin này. Đặc biệt là nắm được các chống chỉ định và thận trọng liên quan đến nguy cơ rối loạn huyết khối tắc mạch liên quan đến các thuốc tránh thai phối hợp. 

Giáo dục bệnh nhân về các dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến rối loạn huyết khối tắc mạch và hướng dẫn bệnh nhân liên hệ trực tiếp với bác sĩ điều trị nếu họ bị tăng nặng, trầm trọng hơn hoặc xuất hiện các tình trạng hoặc nguy cơ được liệt kê bên dưới. Cần ngừng sử dụng ngay lập tức thuốc tránh thai phối hợp ngay từlần đầu xuất hiện bất kỳ tình trạng nào trong đó trong thời gian sử dụng thuốc.

 

 Các chống chỉ định liên quan đến các rối loạn huyết khối tắc mạch bao gồm:

1. Sự có mặt hoặc có nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE):

- Đang mắc VTE (đang được dùng thuốc chống đông) hoặc có tiền sử huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc thuyên tắc mạch phổi, hoặc rối loạn huyết khối khác. 

- Có di truyền hoặc mắc phải khuynh hướng huyết khối tĩnh mạch, như kháng protein C hoạt động (bao gồm yếu tố V Leiden), thiếu antithrombin III, thiếu protein C và thiếu hụt protein S. 

- Đại phẫu thuật với thời gian bất động kéo dài. 

- Có nguy cơ cao mắc VTE do sự có mặt của nhiều yếu tố nguy cơ. 

2. Sự có mặt hoặc có nguy cơ thuyên tắc huyết khối động mạch (ATE):

- Đang mắc ATE hoặc có tiền sử ATE (ví dụ như nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ) hoặc tình trạng báo trước (ví dụ đau thắt ngực hoặc cơn thiếu máu thoáng qua; cơn thiếu máu thoáng qua). 

- Có di truyền hoặc mắc phải khuynh hướng ATE, ví dụ tăng homocystein máu và kháng thể kháng phospholipid (kháng thể kháng cardiolipin và kháng đông lupus). 

- Tiền sử đau nửa đầu có các triệu chứng thần kinh cục bộ. 

- Nguy cơ cao mắc ATE do có nhiều yếu tố nguy cơ hoặccó một yếu tố nguy cơ nghiêm trọng như: 

+ Đái tháo đường với các triệu chứng mạch máu. 

+ Tăng huyết áp nặng. 

+ Rối loạn lipid máu nặng. 

 

FDA Hoa Kỳ: Cảnh báo mới về việc sử dụng thuốc gây mê toàn thân và thuốc an thần cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai 

Ngày 14/12/2016, Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA Hoa Kỳ) đã thông báo về việc sử dụng lặp lại hoặc kéo dài thuốc gây mê toàn thân và thuốc an thần khi tiến hành phẫu thuật hoặc thủ thuật ở trẻ dưới 3 tuổi hoặc phụ nữ mang thai ở 3 tháng cuối của thai kỳ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ của trẻ.

Tương tự như các nghiên cứu trên động vật, các nghiên cứu trên người gần đây cho thấy sử dụng đơn liều, phơi nhiễm trong thời gian tương đối ngắn với thuốc gây mê toàn thân và thuốc an thần đối với trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ dường như không gây ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi hoặc khả năng học tập. Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu phân tích đầy đủ hơn về ảnh hưởng của việc sử dụng các thuốc này lên sự phát triển não bộ của trẻ khi trẻ phơi nhiễm với các thuốc này sớm trong những năm đầu đời.

Nhằm tăng cường truyền thông đến cộng đồng về nguy cơ tiềm tàng này, FDA Hoa Kỳyêu cầu bổ sung cảnh báo này vào nhãn thuốc và tờ hướng dẫn sử dụng của các thuốc gây mê và an thần đang lưu hành trên thị trường. FDA Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giám sát việc sử dụng các loại thuốc này ở trẻ em và phụ nữ mang thai và sẽ cập nhật tới cộng đồng nếu có thêm thông tin mới.

Thuốc gây mê và thuốc an thần cần thiết cho trẻ sơ sinh, trẻ em và phụ nữ mang thai trong trường hợp cần tiến hành phẫu thuật hoặcthủ thuật khác gây đau và stress, đặc biệt trong trường hợp đe dọa tính mạng và không thể trì hoãn phẫu thuật. Ngoài ra, việc không điều trị giảm đau có thể gây hại cho trẻ và ảnh hưởng đến hệ thần kinh đang phát triển của trẻ.

Theo FDA Hoa Kỳ, cần tiến hành thêm các nghiên cứu đểcung cấp thông tin bổ sung về việc sử dụng an toàn các thuốc này ở trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai.FDA Hoa Kỳcũng khuyến khích cán bộ y tế báo cáo các biến cố bất lợi ghi nhận được liên quan đến các thuốc này.

Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: 

Cần đánh giá cân bằng lợi ích - nguy cơ khi sử dụng thuốc gây mê trên trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai, đặc biệt khi tiến hành các thủ thuật can thiệpcó thể kéo dài hơn 3 giờ hoặc tiến hành nhiều thủ thuật cho trẻ em dưới 3 tuổi. Cần trao đổi trước với cha mẹ, người chăm sóc trẻ và bản thân phụ nữ mang thai về những lợi ích, nguy cơ và thời gian thích hợp tiến hành phẫu thuật hoặc thủ thuật đòi hỏi phải sử dụng thuốc gây mê hoặc an thần vàthời điểm phẫu thuật hoặc thủ thuật có thể trì hoãn mà không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ.

 

 NSAID: Không sử dụng từ tháng thứ 6 của thai kỳ

 Một số lượng lớn phụ nữ có thai vẫn đang phơi nhiễm với Các thuốc chống viêm không steroid(NSAID) từ tháng thứ 6 của thai kỳ. Cơ quan Quản lý Dược phẩm Pháp (ANSM) đã nhắc lại chống chỉ định của các NSAID (như ibuprofen, ketoprofen, diclofenac, …) và cả aspirin từ tháng thứ 6 của thai kỳ với bất kể thời gian và đường dùng nào của thuốc. Các thuốc này có thể gây ra độc tính cho thai nhi, ngay cả khi chỉ sử dụng 1 liều duy nhất, với nguy cơ tổn thương thận và tim phổi có thể gây tử vong cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.

NSAID được sử dụng trong nhiều tình trạng bệnh lý, đặc biệt trong giảm đau, hạ sốt và chống viêm (khớp). Trong đó, có nhiều thuốc được cấp phát không cần đơn và có thể sử dụng để tự điều trị.

Các dữ liệu ban đầu của một nghiên cứu cho thấy một số lượng lớn phụ nữ có thai vẫn được kê đơn với NSAID từ khi bắt đầu tháng thứ 6 thai kỳ, mặc dù sử dụng này là một chống chỉ định đã được quy định rõ trong thông tin của thuốc khi lưu hành.

Do vậy, ANSM đã nhắc lại đối với phụ nữ có thai, người thân và các cán bộ y tế rằng các NSAID bị chống chỉ định từ đầu tháng thứ 6 của thai kỳ (khoảng tuần thứ 24 sau khi hết kinh nguyệt). Chống chỉ định này áp dụng với mọi loại NSAID, bao gồm cả aspirin (acid acetylsalicylic), bán theo đơn hoặc bán không cần đơn (OTC), với bất kể khoảng thời gian và đường dùng nào của thuốc (đường uống, đường tiêm hay ngoài da). Đặc biệt, chống chỉ định sử dụng các thuốc chứa celecoxib và etoricoxib trong toàn bộ thai kỳ.

Chống chỉ định này dựa trên các nguy cơ nghiêm trọng của NSAID đối với sức khỏe thai nhi và trẻ sơ sinh. Việc phơi nhiễm với thuốc từ tháng thứ 6 của thai kỳ gây nguy cơ tổn thương thận và tim phổi có thể không hồi phục, thậm chí gây tử vong cho thai nhi và/hoặc trẻ sơ sinh.

Cần có hướng dẫn cụ thể về các liệu pháp thay thế dùng thuốc và không dùng thuốc trong từng giai đoạn của thai kỳ.

Cần luôn luôn cảnh giác ngăn ngừa sử dụng NSAID ở phụ nữ có thai trong giai đoạn nhạy cảm trên (bất kể là kê đơn hay tự điều trị). ANSM cũng lưu ý cần đánh giá lại tất cả các điều trị bằng thuốc nói chung ở phụ nữ có thai. Đặc biệt, cho đến tháng thứ 5 của thai kỳ, NSAID chỉ được sử dụng khi thật sự cần thiết, với liều thấp nhất có hiệu quả và trong khoảng thời gian ngắn nhất.


ANSM: Cập nhật danh mục các thuốc trên hệ thần kinh trung ương có thể ảnh hưởng đến khả năng vận hành máy móc 

Tại Pháp, danh mục các thuốc tác dụng trên thần kinh trung ương liên quan được bổ sung thêm nhãn cảnh báo đã được cập nhật theo văn bản ngày 13/3/2017 và được công bố chính thức ngày 18/3/2017.

Việc sử dụng một số thuốc nhất định có thể thay đổi khả năng lái xe. Tại Pháp, 3,4% các tai nạn gây tử vong trên đường là do sử dụng thuốc và một nửa số trường hợp trong số đó, nguyên nhân được xác định là do điều trị bằng benzodiazepin (an thần gây ngủ), được sử dụng trên 11 triệu người tại quốc gia này. Do đó, các nhãn cảnh báo phản ánh mức độ nguy cơ khác nhau của các thuốc đã được áp dụng trên bao bì sản phẩm từ năm 2008 để thông tin đến bệnh nhân và cán bộ y tế.

Với mỗi hoạt chất có liên quan, các ký hiệu theo từng mức độ được xác định rõ tùy theo mức độ nguy cơ và thận trọng:

- Mức độ 1: Thận trọng: Không lái xe khi chưa đọc kỹ hướng dẫn sử dụng.

- Mức độ 2: Hết sức thận trọng: Không lái xe khi chưa có ý kiến của cán bộ y tế.

- Mức độ 3: Nguy hiểm, không lái xe: Cần có ý kiến của bác sĩ khi muốn vận hành máy móc.

Việc cập nhật danh mục các thuốc này bao gồm việc bổ sung 30 hoạt chất mới và đánh giá lại 72 hoạt chất cũ. Đối với khoảng 15 hoạt chất cũ, chủ yếu là các benzodiazepin, ký hiệu ứng với mức 3, tức là không được dùng khi lái xe. Đánh giá của ANSM với các nhóm thuốc khác về nguy cơ trên điều khiển phương tiện được tiếp tục và 2 cập nhật mới được tiến hành từ nay đến cuối năm 2017.

Trong bối cảnh này, một thoả thuận đã được ký kết vào ngày 22/3/2017 nhằm tăng cường cảnh báo cho cộng đồng về các thuốc có tác dụng trên lái xe. Thoả thuận này đi kèm với một hoạt động cảnh báo chưa từng có cho các nhà thuốc ở Pháp và một bộ quy tắc truyền thông sẽ được áp dụng giúp các dược sĩ cảnh báo cho cộng đồng.

Bản dịch danh mục thuốc theo khuyến cáo của ANSM nêu trên đã được đăng trên trang web http://canhgiacduoc.org.vn.


Valproat natri và dẫn chất: Yêu cầu tăng cường thông tin về nguy cơ 

Từ ngày 01/3/2017, ANSM yêu cầu bổ sung thêm nhãn dán cảnh báo nguy cơ khi sử dụng các thuốc chứa valproat và dẫn chất trong thai kỳ trên bao bì các chế phẩm này.

Nội dung cảnh báo:


VALPROAT* + THAI NGHÉN = NGUY HIỂM

Không sử dụng thuốc cho các bé gái, nữ giới ở tuổi thiếu niên, trong độ tuổi sinh sản hoặc phụ nữ có thai, trừ trường hợp thất bại với các điều trị khác

* Tên các chế phẩm chứa valproat hoặc dẫn chất

ANSM cũng nhắc lại khuyến cáo cấp thẻ bệnh nhân (ngày 13/2/2017) và các biện pháp giảm thiểu nguy cơ khác cho người điều trị bằng các thuốc này. Thông tin được chuyển tới các cán bộ y tế có liên quan cũng như bệnh nhân, đặc biệt là phụ nữ để tăng cường giám sát sử dụng thuốc.

 

Không hữu dụng  1   2   3   4   5  Rất hữu dụng
: Không hữu dụng  1   2   3   4   5  Rất hữu dụng
:
:
:
:
Gửi bài viết cho bạn bè:
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
:
:
Địa chỉ email người nhận
:
:
: